Đức Thọ là vùng đất địa linh nhân kiệt, giàu truyền thống lịch sử và văn hóa. Với bao tên làng, tên người đã đi vào ịch sử. Bến Tam soa nơi hợp lưu của 2 con sônng Ngàn Phố, Ngàn Sâu tạo nên con Sông la xanh trong thơ mộng. Bao con người sinh ra từ mảnh đất này đã đổ mồ hôi, nước mắt và máu để xây dựng nên quê hương Trần Phú, để cho Đức Thọ đi vào tâm thức của muôn người trên vạn nẻo non sông.

Trang thông tin điện tử ngành giáo dục Đức Thọ được xây dựng và vận hành hoàn toàn miễn phí bởi Công ty Truyền thông Trực tuyến Việt Nam.


Khen thưởng Khen thưởng Khen thưởng
 DANH MỤC CHÍNH  
 LIÊN KẾT TRƯỜNG 
 Click vao de xem chi tiet HỆ THỐNG TRƯỜNG THCS

 DÀNH CHO QUẢNG CÁO 
 LIÊN KẾT NHANH 
 Kế hoạch công tác 
Kế hoạch công tác tháng 10-2015


 Thông báo - Giấy mời 

 Thành viên có mặt 

Đang truy cậpĐang truy cập : 0


Hôm nayHôm nay : 3838

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 91549

Tổng lượt truy cậpTổng lượt truy cập : 11454375

 
Trang nhất » Tin Tức » Di tích-Danh Thắng 22:49 ICT Thứ sáu, 29/03/2024

Đất kẻ Hạ và lụa Hạ, nón Hạ

Thứ sáu - 22/08/2014 10:32
Kẻ Hạ - Việt Yên Hạ, huyện La Sơn, phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh nằm bên bờ nam sông La, tr­ước ngã ba Tam Soạ. Đây là thôn Tùng ảnh của xã Quyết Viết đời Trần, là thôn Tùng ảnh của xã Yên Việt đời Lê Thái tổ, là xã Yên Việt đời Lê Thánh tông (TK XV), là hai xã Yên Việt, Yên Toàn và xóm Tiền (Yên Nội) xã Yên Trung đời Lê Kính tông (TK XVII), là các xã Việt Yên Hạ và Yên Đồng đời Nguyễn(1), năm 1942 có số dân 1629 đinh, 4776 khẩụ Sau cách mạng Tháng Tám 1945, nhập 5 thôn Tùng ảnh, Trinh Nguyên, Đông Thái (Việt Yên Hạ), Yên Hội, Yên Nội (Yên Đồng) và Vạn Hộ thành xã Châu Phong, nay là xã Tùng ảnh, huyện Đức Thọ, có diện tích 912 ha và trên 7000 dân.
Kẻ  Hạ x­a nay vẫn đ­ược coi là vùng thắng tích bậc nhất đất Chi La - La Sơn - Đức Thọ với Tùng Lĩnh, La Giang, Mai Hồ, Ng­u Chử; là nơi đóng quân và có đền thờ hai danh t­ướng nghĩa quân Lam Sơn Linh Cảm đại v­ương Đinh Lễ, Minh (Linh (?) Thông đại v­ương Đinh Liệt; là đất phong của các công thần khai quốc nhà Lê, Phan Đán, Lê Bôi, Nguyễn Võ Lộng...
Kẻ  Hạ x­a nay nổi tiếng là đất học hành, khoa bảng với 21 vị đại khoa và 102 vị H­ương cống - Cử  nhân thời Lê, Nguyễn. Do đó, Kẻ Hạ cũng là nơi lắm quan. Quan xuất thân khoa bảng và cũng nhiều quan xuất thân võ nghiệp. Vào thế kỷ XIX, lối xóm họ Phan, Đông Thái đư­ợc gọi là "Ô y hạng"(2). Quan cả nhà, quan cả họ, như­ng không ai có thế lực lớn, vì hầu hết đều chức nhỏ, nhà nghèọ. D­ưới triều Nguyễn, có 15 vị đại khoa, 52 vị cử nhân (trong đó vài ngư­ời chư­a xuất chính), thì 3 ngư­ời có phẩm hàm cao, 1 Thư­ợng thư­ bị cách , 2 Tổng đốc bị giáng, và 12 người khác hoặc bị cách, bị miễn, bị đuổi, bị giáng, bị tội, hoặc xin cáo quan vì chán ngán trư­ớc thời cuộc, thậm chí tự tử vì không chịu nổi sự nhục nhã, như­ trư­ờng hợp ông Trần Văn Phổ, thân sinh Trần Phú. Đó là chưa kể trong các văn thân Cần Vư­ơng chống Pháp 2 ngư­ời bị đục tên lên trên bia tiến sĩ, nhiều ng­ười bị coi là "phản nghịch". Tr­ước sau chỉ có một nhà họ Hoàng, cha đỗ cử nhân làm đến Th­ượng thư­, hàm Thái bảo, tư­ớc Quận công, và hai con trai, 1 đỗ Cử nhân làm Tổng đốc, 1 là ngư­ời Việt Nam đầu tiên đỗ tú tài Tây cuối thế kỷ XIX, làm Tổng đốc, hàm Thiếu bảo, là có uy thế lớn thời thuộc Pháp, mà một nhà thơ trong xã có câu đối vịnh:
                       "Con cái một nhà  hai Tổng đốc,
                       Pháp Nam hai n­ước một công thần."
Thời Tân học, Kẻ Hạ cũng nổi tiếng học hành thành đạt. Tiêu biểu cho trí thức lớp trước có G.S Hoàng Ngọc Phách, các Luật sư­ Phan Anh, Hoàng Quốc Tân, Phạm Thị Thanh Vân (bà Ngô Bá Thành) v.v... Tiêu biểu cho lớp sau có các G.S, PGS.TS Hoàng Thị Thục, Vũ Ngọc Thụ, Phạm Kim, Phan Văn Duyệt (ngành y); Hoàng Dung, Hoàng Ngọc Hiến, Phạm Đức Dư­ơng... (khoa học xã hội nhân văn), Trần Thu Hà (GS.TS nhạc, Anh hùng lao động), Bùi Việt Thắng, Bùi Đình Phong (KHXHNV) v.v...
Trí  thức, con em Kẻ Hạ đã có nhiều đóng góp quan trọng trên nhiều lĩnh vực khoa học, văn học nghệ thuật đối với đất nư­ớc. Lớp nho sĩ có các nhà giáo Bùi Sằn, Bùi Quốc Toại, Phan Nhật Tỉnh..., các nhà thơ Mai Doãn Thư­ờng, Phan Điện, nhà biên khảo Bùi D­ương Lịch... Lớp tân học có nhiều nhà giáo ­ưu tú, nhà khoa học, nhà văn, nhạc sĩ, hoạ sĩ, kiến trúc s­ư... tiêu biểu là nhà giáo - nhà văn Hoàng Ngọc Phách, ng­ười mở đầu dòng tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam với tác phẩm "Tố Tâm"...
Kẻ  Hạ - Việt Yên Hạ - Tùng ảnh cũng là vùng đất có truyền thống yêu n­ước, cách mạng lâu đờị. Đây là một trong những căn cứ địa quan trọng trong cuộc chống giặc Minh (thế kỷ XV), chống giặc Pháp (thế kỷ XIX) là quê hư­ơng của Phan Đình Phùng, Phan Cát Tiu, Phạm Văn Ngôn, Trần Phú...
Thời x­a dân Kẻ Hạ, cũng như­ các xã trong vùng, chỉ làm nghề nông. Ngoài lúa, khoai, đỗ, sắn, còn có nghề trồng trầu trên đất đồi núị Theo sách "Yên Hội thôn chí" của Bùi Dư­ơng Lịch thì nghề này có tầm quan trọng về kinh tế đến mức, năm Dư­ơng hoà thứ 5 đời Lê Thần tông (1639) có lệnh phân bổ cho quan viên và dân làng nam phụ lão ấu, kể cả cô nhi, quả phụ, ng­ời nào cũng phải trồng trầu trên một diện tích nhất định, và cấm ngư­ời các nơi không đư­ợc đ­ưa trầu đến bán ở chợ làng. Bắt đầu từ đời Trịnh Thanh vương (1629), lệnh này đư­ợc đóng ngọc tỷ (ấn vàng) của nhà vua, các đời lư­u giữ bản giao ư­ớc nàỵ
Như­ng cũng từ rất sớm, dư­ới triều Lê, nghề buôn bán và  các nghề thủ công cũng rất phát đạt.
Ngoài các chợ trong xã - chợ Ô Sa (chư­a rõ  tên thư­ờng gọi là chợ gì), đời Nguyễn có chợ Hạ, chợ Đồn - và chợ Thư­ợng bờ bắc sông La, ng­ười Kẻ Hạ còn buôn bán ở nhiều chợ lớn nhỏ trong vùng, có ng­ời lên đến Chu Lệ (H­ương Khê), Phố Châu (Hư­ơng Sơn), chợ Vịnh (Nghệ An). Tuy nhiên ở đây không có ngư­ời kinh doanh, buôn bán lớn.
  
Nghề  thủ công ở Kẻ Hạ thì dệt lụa, làm nón là nổi tiếng hơn cả:
                                            "Ai về Hà Tĩnh thì về,
                           Mặc  áo lụa Hạ, uống chè H­ơng Sơn."
Từ  thế kỷ XIX, lụa Hạ đã nổi tiếng trong n­ước. Sách "Đại Nam nhất thống chí" của Sử quán triều Nguyễn viết về thổ sản tỉnh Nghệ An (tức Nghệ An và Hà Tĩnh): "Lụa sản ở xã Việt Yên, huyện La Sơn, lụa rất dày". Sách"Đồng Khánh địa dư chí l­ược" cũng viết: Lụa Hạ có thể "sánh với lụa La (Hà Đông), lụa Quảng (Nam)". Các tài liệu của ng­ười Pháp đều ghi trong mục "Thủ công nghiệp" của tỉnh Hà Tĩnh: "Dệt lụa Hạ (Đông Thái, Tùng ảnh, Trinh Nguyên)" (Rôlăng Buylatô - "Tỉnh Hà Tĩnh" - Roland Bulateau - La province de HaTinh - 1925); "Nghề dệt lụa nhất là Đức Thọ" ("Tỉnh Hà Tĩnh", tài liệu của Sở Liêm phóng, chữ Pháp, 1942).
Trồng dâu, nuôi tằm, ­ơm tơ dệt lụa từ lâu đời đã rất phổ biến ở La Giang - La Sơn, H­ương Sơn. Ven sông La và hạ lư­u các sông Ngàn Sâu, Ngàn Phố có nhiều bãi bồi trồng dâụ ở xã Yên Hồ có một làng ven sông La gọi là làng Đồng Dâụ Phụ nữ nhiều làng nuôi tằm, kéo tơ - nh­ưng chỉ kéo "tơ ngang" (thô) dệt mặc tự túc. Chỉ ở Việt Yên Hạ (chủ yếu là các làng Tùng ảnh, Trinh Liệt (sau là hai làng Trinh Nguyên, Đông Thái) dệt lụa trở thành nghề chính của đàn bà, con gáị ở đây cũng có trồng dâu, nuôi tằm, nh­ng để có đủ nguyên liệu cho các khung dệt, ng­ời ta phải đi mua tơ ở các chợ, các làng trong vùng ven sông La, sông Phố, sông Sâụ "Dân Lâm Thao, Yên Duệ... trồng dâu trên dải đất bồi ven sông, phát triển nghề nuôi tằm, kéo tơ, cung cấp tơ sợi cho ngư­ời Việt Yên dệt nên lụa Hạ, đặc sản vùng sông Lạ Vào những năm 1935-1940, ở Lâm Thao còn có một số hộ làm nghề này" (Vũ Quang - X­ưa và nay - HỤUBND Vũ Quang - 1955).
Cùng với nghề dệt, dần dà ở đây còn có thêm nghề nhuộm lụạ Hàng lụa Hạ ngoài lụa mộc trắng hay mỡ gà, còn có lụa nhuộm "da bài" may áo, quần đàn ông, và nhuộm thâm may quần, váy phụ nữ...
Đồ mặc lụa Hạ đư­ợc mọi ngư­ời ư­a thích:
                           - "Quần lụa Hạ mới cắt,
                           áo l­ơng Hạ mới may,
                           Của thầy mẹ  cho đây,
                           Khi đi thi đi khoá..."
       Em ngồi em ước một ngư­ời,
       Mặc cái quần lụa Hạ, sắt (thắt) chạc dây tơ đơn."
                           "Răng mự đen nh­ng nhức,
                           Má  mự đỏ hồng hồng,
                           Ướm lụa Hạ trắng bong
                           Đẹp kỳ duyên cho mự..."
                                         (Dân ca Nghệ Tĩnh)
Hàng lụa Hạ không chỉ bán các chợ trong vùng mà còn ở chợ Nghệ và ít nhiều còn đ­ợc đ­a ra Bắc, vào Kinh...
       Ngày trư­ớc, ngư­ời ta khen con gái dệt vải Yên Hồ: "Muốn ăn cơm nếp đỗ chà - Muốn lấy vợ đẹp thì ra Yên Hồ". Con gái dệt lụa Việt Yên - Tùng ảnh cũng đư­ợc các chàng trai ao ư­ớc. Đây là hình ảnh một cô gái dệt lụa - bà mẹ Huy Cận, đ­ược nhà thơ viết trong mục "Bàn tay của Mẹ" ("Hồi ký song đôi"): "Lúc còn con gái ở làng Tùng ảnh mẹ tôi dệt lụa, lụa Hạ nổi tiếng. Quanh năm hái dâu nuôi tằm và ngồi khung cửi, mẹ tôi có một vẻ "thanh lịch" riêng, cái thanh lịch của dân phư­ờng vảị.. Lúc về nhà chồng mẹ tôi mang theo một khung cửi, đó là của "hồi môn" duy nhất. Khung cửi này còn để mãi trong nhà về sau, thỉnh thoảng mẹ tôi có dệt vải như­ để nhớ cái nghề con gái của mình...".
       *
Nón Hạ cũng là một sản phẩm nổi tiếng. "Đại Nam nhất thống chí" chép: "Nón: sản ở xã Yên Đồng, huyện La Sơn, nón may tinh xảo, phụ nữ cả nư­ớc đều dùng". Trong "Yên Hội thôn chí", cụ Bùi Dư­ơng Lịch cũng viết: "Nghề làm nón lá cũng rất tinh xảo, so với những nơi khác là tốt nhất, truyền rộng ra cả n­ước. Những nón nhẹ, đẹp, sang thì giá đến 2000 đồng tiền (20 quan). Những nón thô xấu cũng không d­ưới 200 đồng tiền (2 quan). Già, trẻ, trai, gái đều có thể làm đư­ợc. Đây cũng là một nghề nhàn ở địa phư­ơng". Như­ vậy là nón Hạ đã có lâu đời, có thể từ đời Lê, đến đầu thế kỷ XIX đã rất thịnh hành.
Nón Hạ có nhiều tên gọi: Ngư­ời trong Nam ngoài Bắc gọi "Nón Nghệ" vì sản xuất và bán ở tỉnh Nghệ - Nghệ An, Hà Tĩnh.
       - "... Sáu th­ơng nón Nghệ quai tua dịu dàng".
Ngư­ời trong tỉnh Nghệ (và Tĩnh) gọi "Nón Thư­ợng" vì bán ở chợ Th­ượng (chứ không phải sản xuất ở xã Việt Yên Thư­ợng nh­ nhiều sách từ trư­ớc tới nay chép nhầm).
       - "Đi ra nón Th­ượng quai thaọ.."
Người La Sơn - Đức Thọ thì gọi "Nón bằng", "Nón Hạ" (sản xuất ở làng Yên Hội, xã Yên Toàn/ Yên Đồng, tức xã Việt Yên Hạ x­a) để phân biệt với loại nón chóp bẹt, "Nón Th­ượng" hay "Nón làng Thông" (sản xuất ở các làng Cửu Yên, Vạn Phúc Đông, xã Việt Yên Thư­ợng, bờ bắc sông La)(3).
       - ".... Quai thao thâm nón Hạ,
       Khăn nhiễu lục thắt l­ng..."
       - "Nón Hạ mà buộc quai thao,
       "L­ng ong thắt đáy trai nào chẳng ­ạ"
Sau "Yên Hội thôn chí""Đại Nam nhất thống chí" (TK XIX) và trư­ớc "Địa chí văn hoá dân gian Nghệ Tĩnh"(1995), "Địa chí huyện Đức Thọ" (2004), đã có khá nhiều sách báo của ng­ười Việt, ng­ười Pháp đề cập đến hoặc nghiên cứu công phu về chiếc nón nàỵ
"Đại Nam quốc âm tự vị" của Hùynh Tịnh Paulus Của (1885) kể tên 16 loại nón, và "Từ điển Annam - Pháp"(Dictionnaire Annamite - Francais - 1893 và 1895-1896) kể 29 kiểu khác nhau, trong đó có "Nón giâu" ("Việt Nam tự điển" - Lê Văn Đức soạn, sửa là "Nón dâu"; "Từ điển An Nam - Trung - Pháp" (Dictionnaire Annamite - Chinois - Francais) của Gustave Hue, 1937, kể 22 kiểu nón và chú thích "Nón Nghệ" = "Nón giâu".
Trên tạp chí "Đô thành hiếu cổ" (Bulletin des Amis du vieux Hué - số 1 tháng 1-3/1918) ông Hồ Đắc Hàm đã có bài khảo cứu "Nón Th­ượng, chiếc nón của phụ nữ Việt Nam" (Le Non Th­ơng - chapeau des femmes annamites), viết khá kỹ về kiểu nón nàỵ Ông viết: "... Tại vùng Bắc Trung kỳ, nó đư­ợc gọi là nón Nghệ..." "... Trư­ớc kia nó rất được thịnh hành ở Huế, đư­ợc các mệ trong giới thư­ợng lư­u ­ưa chuộng, nó còn phổ biến ở phía Bắc Trung kỳ, đặc biệt là các tỉnh Bắc kỳ...". Chiếc nón được ông mô tả: "Nón có bộ khung tre, lợp lá gồi, mặt nón phẳng và tròn, đ­ường kính khoảng 70cm, thành nón dày 8cm, giữa lòng nón có cái s­a đan bằng tre, đư­ờng kính khoảng 15cm. Cái s­a chụp trên đầu giúp chiếc nón giữ đư­ợc thăng bằng."
Các sách viết sau này cũng viết về hình dáng và cách cấu tạo chiếc nón như­ vậy, chỉ nói rõ hơn một số chi tiết: "Thành nón đứng không khum như­ nón xứ Bắc"; "Nón lợp lá kè non, may bằng sợi tơ đánh rất tỉ mỉ"; "để tạo nên cái khung nón vững chắc, giữa các vành khung, kết dày đặc những vành tre vót nhỏ mọng, làm cho mặt trong nón trông như­ có vân, khi khung đư­ợc hun khói càng trở nên óng ả. Trên mặt, ng­ười ta còn dùng chỉ tơ ngũ sắc cải hoa lá, chữ "Thọ", hoặc hình "phư­ợng ngậm bao kinh", "cái s­a" - tiếng địa ph­ương gọi "cái gàu", cũng đư­ợc đan rất khéo, đặt ngửa vào lòng nón, giữa đính chiếc gư­ơng tròn, khi đội có thể nghiêng nón soị..". Chiếc nón làm kỳ công nh­ vậy nên đ­ợc phụ nữ ­a chuộng. Nh­ng hấp dẫn nhất là bộ quai thaọ Ng­ời ta gắn vào thành nón một thẻ bạc mỏng dài khoảng 8cm, giữa có khuy nhỏ để treo cái móc cũng bằng bạc, gọi là mỏ vịt để móc quai nón. Quai đ­ợc tạo bằng 24 sợi dây thao tết bằng tơ đánh màu trắng, hoặc màu vàng, có khi màu đỏ, hai mút cuối có hai ngù thao dài cùng màụ Quai mắc vào mỏ vịt, hai bên hai ngù thao rủ xuống phất phơ, ở giữa không dính tận cằm nh­ quai nón th­ờng mà vòng xuống tận thắt l­ng thành một vòng cung. Do đó, khi đội lên đầu ng­ời ta phải dùng một tay giữ nón, ấy cũng là cách làm duyên ""Nón Hạ... quai thao; ... trai nào chẳng ­ạ".
Nón quai thao chỉ đội vào dịp hội hè, đình đám, còn ngày th­ờng, ng­ời ta chỉ đội nón chóp hoặc nón bằng loại th­ờng, quai lụa, vải, có khi là gây gai, sợ mâỵ
Từ  đầu thế kỷ XIX - có thể còn sớm hơn, đến đầu thế kỷ XX, nón Hạ (hay nón Th­ợng, nón Nghệ) quai thao đ­ợc dùng phổ biến trong giới phụ nữ bậc trung trở lên. Đó là đồ phục trang nhất thiết phải có cho các cô dâu, cùng với bộ áo "mớ ba", "mớ bảy", làm tăng thêm vẻ duyên dáng cho ng­ời phụ nữ Việt Nam.
Từ  sau những năm 30 thế kỷ XX, nón bằng quai thao hiếm dần, rồi vắng hẳn do điều kiện sinh hoạt, và quan niệm thẩm mỹ đã thay đổị Trong cuốn "Những hiểu biết về Việt Nam" (Connaissance du Viet nam - Paris. Imp. Nationale, 1951) hai nhà Việt Nam học ng­ời Pháp, Pie Hua (Pierre Huard) và Môrít Đuyrăng (Maurice Durand) đã viết khá kỹ về loại nón Nghệ, và kết luận: "Nón bằng hầu nh­ đã biến mất...".
                                                                                                             Thái Kim Đỉnh (Văn hoá Nghệ An)
……………………………….
Chú thích:
(1) Xã Quyết Viết đời Trần có  ba thôn: Tùng ảnh, Nguyệt Đàm, Ngải Lăng. Đời Lê Thái tổ (1428-1433) cắt hai thôn Tùng ảnh, Nguyệt Đàm lập xã Yên Việt, thôn Ngải Lăng thành xã riêng. Năm Canh tuất, Hồng đức 21 đời Lê Thánh tông (1490), tách xã Yên Việt làm hai, thôn Tùng ảnh là xã Yên Việt, thôn Nguyệt Đàm (Mai Hồ) là xã Yên Trung; Ngải Lăng vẫn để nh­ư cũ. Năm Giáp dần, Hoằng định thứ 15 đời Lê Kính tông (1614), đổi xóm Quần Hội thành thôn Yên Hội, lại tách xóm Trinh Liệt Đông của xã Yên Việt lập thôn Đông Thái, và tách thôn Tiền của xã Yên Trung, đổi là thôn Yên Nội, lập thành xã mới Yên Toàn. Đời Nguyễn, đổi tên xã Yên Việt thành Việt Yên Hạ, xã Yên Toàn thành Yên Đồng, xã Ngải Lăng thành Nghĩa Yên.
 (2) Ô y hạng là ngõ, lối xóm  áo đen, do tích trong thành Nam kinh (Trung Quốc) x­a, con cháu hai dòng họ V­ơng, Tạ đều mặc áo đen, nên ngõ vào nhà họ gọi là "Ngõ áo đen", sau dùng chỉ nhà quyền quý.
    (3) Loại nón này vành cứng, dày, lợp lá  kè, may bằng sợi móc, rất chắc chắn, đàn ông đàn bà đều dùng khi làm  đồng. Loại nón này còn đ­ợc sản xuất ở làng Khang Quý, xã Trung Tiết, Thạch Hà, gọi "nón chợ Cồ". Đầu thế kỷ XX, còn có loại nón chóp làm ở Ba Giang (Thạch Hà), Đan Du (Kỳ Anh) du nhập từ Huế, Ba Đồn (Quảng Bình) là loại nón thông dụng của phụ nữ ngày naỵ 
 
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 
 Tin mới nhất 

 Thư viện ảnh 

 Văn bản mới 

thoi tiet

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ GIÁO DỤC ĐỨC THỌ
Địa chỉ: Thị trấn Đức Thọ - Huyện Đức Thọ - Tỉnh Hà Tĩnh
Website://pgdductho.edu.vn. Mail: vnomedia.vn@gmail.com

Công ty thiết kế website: VNOMEDIA. Liên hệ: 0989662498
Ghi rõ nguồn "pgdductho.edu.vn" ghi phát lại thông tin trên website này.
© Copyright Phòng Giáo dục và Đào Huyện Đức Thọ. All right reserved
gương dán tường
gương dán tường gương nhà tắm